Vụ việc CTCP Sỹ Ngàn bị chủ nợ là CTCP Đầu tư Trường Phúc kiện yêu cầu phá sản đang được dư luận khá quan tâm.
Dưới đây là trao đổi của Luật sư Nguyễn Hồng Chung, Giám
đốc Công ty Luật Davilaw, Chủ tịch Câu lạc bộ Kinh doanh Bất động sản
RedClub xung quanh vụ việc này.
Thưa ông, theo quy định của
pháp luật, xuất phát từ cơ sở nào mà chủ nợ nhận định con nợ “lâm vào
tình trạng phá sản” để yêu cầu mở thủ tục phá sản?
Theo Điều
3, Luật Phá sản 2004, doanh nghiệp (DN) lâm vào tình trạng phá sản là
DN không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có
yêu cầu.
“Lâm vào tình trạng phá sản” là tình thế đặt ra đối với
các DN không có khả năng thanh toán các khoản nợ đã đến hạn, hoặc đã
gia hạn, nhưng hết thời gian đó vẫn không có khả năng thanh toán đối với
những khoản nợ không có bảo đảm và chỉ có bảo đảm một phần.
Cần
phân biệt rõ việc “lâm vào tình trạng phá sản” với “phá sản”. “Lâm vào
tình trạng phá sản” chỉ là tình trạng khởi đầu của thủ tục phá sản, do
tòa án quy định từ việc không thanh toán được các khoản nợ đến hạn.
Luật sư Nguyễn Hồng Chung |
Việc mất khả năng thanh toán hoặc không trả nợ đúng hạn phải được chứng minh bằng các bằng chứng gì tại tòa?
Việc xác định mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của DN phải được chứng minh bằng 2 việc:
Thứ
nhất, có các khoản nợ đến hạn. Chủ nợ phải xuất trình được các giấy tờ,
như giấy vay nhận nợ, hợp đồng cho vay, giấy tờ xác nhận giao và nhận
tiền, giấy tờ gia hạn trả nợ (nếu có)
Thứ hai, chủ nợ đã có yêu
cầu thanh toán, nhưng DN không có khả năng thanh toán. Chủ nợ phải xuất
trình được các giấy tờ sau: các loại công văn về đòi nợ, phiếu xác nhận
gửi qua bưu điện, biên bản làm việc về chậm thực hiện nghĩa vụ thanh
toán, giấy tờ về khất nợ, xác nhận số tiền nợ, xác nhận về thời gian
thanh toán khoản nợ…
Việc xuất trình các tài liệu chứng minh này
sẽ do người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thực hiện. Tòa án sẽ căn
cứ vào những chứng cứ do người nộp đơn cung cấp để nhận định DN mắc nợ
có lâm vào tình trạng phá sản hay không.
Trong trường hợp
phải phá sản, các chủ nợ khác và đặc biệt là các khách hàng của dự án
này sẽ bị thiệt hại như thế nào? Họ phải làm gì để hạn chế thiệt hại?
Trước
hết, nên đặt lại cụm từ “Trong trường hợp phải phá sản” thành “Trong
trường hợp tòa án xác định DN lâm vào tình trạng phá sản và ra quyết
định mở thủ tục phá sản”.
Trong trường hợp đó, các chủ nợ và
khách hàng của dự án sẽ chỉ được thanh toán nếu tài sản của DN vẫn còn
đủ để trả các khoản nợ này. Do đó, thiệt hại lớn nhất có thể xảy ra với
các chủ nợ và khách hàng dự án là họ sẽ mất trắng số tiền mà họ đã bỏ ra
để cho vay hoặc dùng để mua nhà trong dự án.
Do vậy, để hạn chế
tối đa các thiệt hại có thể xảy ra, các chủ nợ và khách hàng dự án phải
bám sát thủ tục phá sản của tòa án và xuất trình đầy đu, đúng hạn các
giấy tờ chứng minh khoản nợ của mình. Đồng thời, cần tham gia các hội
nghị chủ nợ để biểu quyết đưa ra các quyết định liên quan, giám sát hoạt
động của DN, nhằm tránh tình trạng tẩu tán tài sản.
Việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng mua sản phẩm tại dự án được tiến hành như thế nào?
Các
dự án hiện đều thực hiện việc bán tài sản hình thành trong tương lai và
khách hàng mua các sản phẩm này phải giao tiền theo một lộ trình đã ký
kết trước đó đến khi dự án hoàn thành và bàn giao sản phẩm. Do vậy, bản
thân dự án đang thực hiện là một tài sản của DN, nên có thể coi khoản
tiền mà khách hàng giao trước là một khoản nợ có bảo đảm bằng các tài
sản trong tương lai. Vì vậy, quyền lợi của khách hàng đã mua sản phẩm
tại dự án sẽ được đảm bảo như một khoản nợ có bảo đảm trong tương lai.
Khách
hàng của dự án có quyền tham gia hội nghị chủ nợ, vì thực chất, họ cũng
là chủ nợ của DN đối với khoản tiền đã ứng trước để mua sản phẩm của dự
án.
Có ý kiến cho rằng, việc yêu cầu mở thủ tục phá sản
trong trường hợp của Công ty cổ phần Đầu tư Trường Phúc chỉ là động thái
nhằm mục đích ép đối tác trả nợ. Ông có bình luận gì về ý kiến này?
Theo
tôi, đây cũng có thể là một hình thức mà Công ty Trường Phúc ép đối tác
trả khoản nợ của mình. Thị trường bất động sản hiện giảm rất sâu, việc
nhà đầu tư không có đủ vốn để thực hiện dự án mà phải thế chấp hoặc vay
vốn từ nhiều nguồn khác nhau, dẫn đến việc chậm trả một số khoản nợ đến
hạn là điều thường xảy ra tại nhiều dự án. Việc chậm trả một khoản nợ
đến hạn có thể nói là khá bình thường trong đầu tư bất động sản, nhưng
không có nghĩa việc chậm trả đó dẫn đến tình trạng DN lâm vào tình trạng
phá sản.
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với đối tác
của Công ty Trường Phúc cũng có thể chỉ là nhằm ép Công ty Sỹ Ngàn trả
nợ. Nếu điều này là sự thật thì thiệt hại xảy ra đối với Sỹ Ngàn là rất
lớn. Việc uy tín sụt giảm nghiêm trọng, đối tác không tiếp tục hợp tác,
hoặc dự án đang chào bán không bán được… có thể đưa Sỹ Ngàn đến việc vỡ
nợ, xa hơn nữa là phá sản. Do vậy, nếu chứng minh được việc Công ty
Trường Phúc nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản với Sỹ Ngàn chỉ là
chiêu trò để ép đối tác trả nợ thì tòa án có thể yêu cầu Trường Phúc
bồi thường thiệt hại gây ra đối với Sỹ Ngàn. Tuy nhiên, rất khó để xác
định điều này.
Theo ông, để xử lý nợ giữa các DN còn có cách nào khác hiệu quả hơn không?
Việc
xử lý nợ giữa DN với nhau đòi hỏi sự hợp tác lớn từ hai phía, ở khía
cạnh là người đi vay không phải là không muốn trả nợ, nhưng có thể do
tình hình khó khăn hiện tại nên họ chưa trả được nợ và người cho vay nên
biết và cùng trao đổi để hợp tác giải quyết. Còn với các trường hợp
chây ỳ không trả, thì DN có thể dùng đến các công cụ khác để đòi nợ, đó
là thuê các công ty đòi nợ, hoặc kiện ra tòa án yêu cầu bên kia trả nợ…
(Theo Đầu tư)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét